VẠN 萬 = 10.000 : Vạn tự 萬 字 = chữ VẠN
Lịch sử chữ VẠN
Chữ Vạn (tiếng Phạn: स्वस्तिक svastika) là một biểu tượng chữ thập với bốn đầu mút cong về góc trái và hướng sang bên trái, có hướng xoay ngược chiều kim đồng hồ. Tên gọi svastika (gồm chữ sv và asti ghép lại) hiểu theo tiếng Phạn có nghĩa là "phúc lộc, an khang, thành công thịnh vượng". Biểu tượng chữ Vạn của Ấn Độ giáo, đôi khi còn được trang trí thêm các chấm tròn ở các góc một phần tư.
Đây là biểu tượng của sự may mắn, đã từng xuất hiện lần đầu khoảng 16.000 đến 14.000 trước công nguyên. Biểu tượng này được lấy ý tưởng từ việc quan sát vũ trụ, hệ mặt trời, nó thể hiện nơi phát sinh ra nguồn sống vô tận, và sự vĩnh hằng. Trong tín ngưỡng Ấn Độ giáo, chữ Vạn được đồng hóa với thần Vishnu và được liên kết với thần Shiva và việc thờ rắn thần Nagar.
Chữ Vạn được coi là biểu tượng của Phật giáo, hàm chứa Phật tính. Đây là một trong 80 vẻ đẹp của Phật. Trong truyền thống đạo Bon bản địa của Tây Tạng, chữ Vạn là biểu tượng của sự vĩnh hằng, bất biến. Chữ svastika của đạo này quay ngược chiều kim đồng hồ, hoặc cùng chiều kim đồng hồ
Chữ Vạn được xuất hiện trên ngực hoặc trên lòng bàn tay và gót chân của Phật hoặc các Jinas. Nó còn được dùng làm hoa văn trang trí trên vải, tạo thành đường viền cho mẫu thiết kế.
■ Chữ Vạn của Phật (mẫu A hay B): Svastika or Evolution.
■ Chữ Vạn của Hitler (mẫu C): Sauvastika or Destruction.
Chữ Vạn là một biểu hiệu chớ không phải chữ viết.
Bốn cánh của chữ Vạn tạo thành như 4 cái bóng của 4 cái đầu của hình chữ Thập + khi quay tròn.
Do đó, chữ Vạn có chiều quay.
- Theo mẫu (A): chữ Vạn có chiều quay ngược chiều kim đồng hồ, đây cũng là chiều quay tự nhiên của các quả địa cầu quanh mặt trời và cũng là chiều tự quay của nó.
- Theo mẫu (B): chữ Vạn có chiều quay đồng chiều kim đồng hồ, tức là theo chiều tương sanh trong Ngũ Hành.
Các nhà Phật học đã bàn cãi rất nhiều về hai chiều quay của chữ Vạn, cho rằng phải quay theo chiều nầy mới đúng, quay theo chiều kia là sai. Chúng ta sẽ xem chi tiết sự bàn cãi về chiều quay nầy trong phần dưới.
Chữ Vạn của Phật thì vẽ chữ Thập + ở giữa thẳng đứng.
Chữ Vạn của Hitler thì vẽ chữ Thập x ở giữa nằm xiên (mẫu C) làm biểu hiệu của Đảng Quốc Xã nước Đức.
Những nhà Phật học không thống nhứt nhau về chiều quay của chữ Vạn, mỗi nhà nêu ra một cách, xin lược kê ra sau đây: Lấy 2 mẫu chữ VẠN bên trên:
- mẫu A: 卐 chiều quay ngược chiều kim đồng hồ.
- mẫu B: 卍 chiều quay cùng chiều kim đồng hồ.
1. Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, trang 68:
Chữ nầy trong kinh truyện không có, chỉ trong nhà Phật có thôi. Nhà Phật nói rằng: khi Phật giáng sinh, trước ngực có hiện ra hình chữ Vạn 卐 (A), người sau mới biết chữ ấy.
Trong bộ Hoa Nghiêm Âm Nghĩa nói rằng: Chữ Vạn (A) nguyên không có, đến niên hiệu Tràng Thọ thứ 2 đời nhà Chu mới chế ra và âm là VẠN nghĩa là muôn đức tốt lành đều hợp cả ở đấy. Lại chữ Vạn (A) nguyên tiếng Phạn là Srivatsalaksana. Các Ngài La Thập, Huyền Trang dịch là ĐỨC, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch là VẠN.
Ở bên Ấn Độ thì tương truyền là cái tướng cát tường, dịch là ĐỨC là nói về phần công đức, dịch là VẠN là nói về phần công đức đầy đủ.
Song, Vạn (A) nguyên là hình tướng chớ không phải là chữ, cho nên dịch là cát tường hải vân tướng, mà theo cái hình xoay về bên hữu (A) là phải hơn. Vì xem như nhiễu Phật thì nhiễu về bên hữu, hào quang của Phật ở khoảng lông mày phóng ra cũng xoay về bên hữu, thì viết xoay về bên hữu mới là tướng cát tường, có chỗ làm xoay về bên tả (B) là lầm.
Vậy theo Thiều Chữu, hình chữ Vạn (A) đúng, (B) sai.
2. Phật học Từ Điển của Đoàn Tr. Còn, tr 600, Q.3:
VẠN TỰ: Svastika, chữ Vạn 卍 (B) cũng kêu Kiết tường.
Ấy là một chữ linh bên Ấn Độ, chữ ấy có sức đưa lại, nêu ra các điểm tốt lành, vui vẻ, phước đức. Vì vậy nên gọi là: Kiết tường, Vạn tự, Đức tự.
Sức lành của chữ Vạn 卍 (B) sâu rộng như biển, cao lớn như mây.
Chư Phật Thế Tôn đều có hình chữ Vạn nổi nơi ngực. Ấy là một tướng quí của các Ngài, và tóc của các Ngài cũng có hình chữ Vạn nữa.
Vì chữ Vạn tiêu biểu cho các điều may mắn, phước đức, tốt lành, cho nên ở trước các ngôi chùa Phật, người ta thường thấy vẽ hình chữ ấy.
NÊN CHÚ Ý: Không nên viết chữ Vạn ngược, vì các nhà học đạo cho là 4 cái đầu lửa, quay thuận chiều thì diệt sạch các phiền não, đem lại sự an lạc; mà quay nghịch chiều thì thiêu hủy các công đức, các thiện căn, thật rất nguy hại!
Vậy theo Đoàn Trung Còn, hình chữ Vạn (A) sai, (B) đúng.
Điều nầy trái ngược với Thiều Chửu mà chúng ta đã thấy ở phần 1 bên trên. Nhưng cả hai ông đều không giải thích được lý do tại sao: chữ Vạn quay theo chiều nầy thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại.
Cả hai vị đều không nêu ra được cái lý do xác đáng và có sức thuyết phục mà người ta không thể bài bác được.
3. Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội PGVN Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học, chủ biên Kim Cương Tử, Q2 tr1822:
VẠN TỰ: Svastika hoặc Srivatsalaksara (thuật ngữ).
Chữ Vạn có hình dáng là: Vạn (A). Đây là tướng biểu thị sự tốt lành lưu truyền ở Ấn Độ, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo, đều sử dụng. Sớm nhất là trên tượng Phạm Thiên, Visnu, Krisna. Âm tiếng Phạn là Thất-lị-mạt-sa-lạc-sát-nẵng, tức là tướng hải vân cát tường.
Các tôn sư Cư-ma-la-thập, Huyền Trang dịch là Đức.
Bồ Đề Lưu-Chi đời Ngụy trong Thập Địa Kinh Luận quyển 12 dịch tiếng nầy là chữ VẠN (Vạn tự), trong đó Thất-lị-mạt-sa tức là chữ Vạn (A) dịch là Vạn với nghĩa là công đức viên mãn, nên có nghĩa là hải vân cát tường, còn dịch là không có lầm lỗi. Chỉ có lạc-sát-nẵng dịch là Tự (chữ). Đây là sự lầm lẫn với từ ác-sát-na. Tiếng Phạn lạc-sát-nẵng tức là tướng ác-sát-na là Tự.
Nay chữ Vạn (A) là tướng chớ không phải Tự (chữ), vậy nên có thể dịch là: cát tường hải vân tướng, tức là vạn tướng.
Thế nhưng hình dáng nầy vòng bên phải là Vạn (A) tương tự như khi kính lễ Đức Phật, hoặc vòng về bên phải ba vòng, tương tự như sợi lông trắng ở giữa hai lông mày của Đức Phật chuyển vòng về bên phải. Tóm lại coi việc vòng về bên phải là tốt lành (cát tường).
Xưa nay, có khi viết là Vạn 卍 (B) là nhầm. Cao Ly Bản Tạng Kinh và Tuệ Lâm Âm Nghĩa quyển 21, Hoa Nghiêm Âm Nghĩa đều viết là Vạn 卐 (A).
Lại nữa, để biểu thị tướng vòng về bên phải, nên ghi là
Theo thuyết của Kinh Đại Thừa thì điều đó biểu thị tướng cát tường trên ngực của Đức Phật và Thập Địa Bồ Tát. Đây là một trong 32 tướng tốt.
Theo thuyết của Tiểu Thừa thì tướng nầy không chỉ giới hạn ở ngực. Xét hình Vạn (A) nầy là tướng tốt lành của bậc Phạm Thiên. Phàm khi vẽ các bức tôn tượng đều có vẽ hình Vạn (A) nầy, ở trong khuôn vẽ hình thể làm pháp, đó là hình ngọn lửa cháy rực. Pháp của Phạm Thiên coi lửa là thanh tịnh nhất, cát tường nhất, nên sáng tạo ra tướng nầy.
Vậy theo Kim Cương Tử và các Hòa Thượng soạn giả, hình chữ Vạn (A) đúng, (B) sai.
4. Theo Từ Điển Phật Học VN của Thích Minh Châu - Minh Chi, trang 757:
"VẠN: Một trong 32 tướng đẹp của Phật, vị trí trên ngực của Phật. Nó biểu thị công đức vô lượng của Phật, lòng từ bi và trí tuệ vô lượng của Phật.
Là phù hiệu, không phải là chữ viết.
Viết xoay bên trái, hay bên phải, đều được, tuy rằng có một số nhà Phật học tranh luận nhau về hướng xoay của phù hiệu nầy.
Nhà độc tài Phát xít Hitle cũng dùng phù hiệu nầy cho Đảng áo nâu của mình, nhưng đặt nghiêng.
Vậy, theo Tiến sĩ Triết học Hòa Thượng Thích Minh Châu và nhà Phật học Minh Chi thì chữ Vạn (A) hay (B) đều được cả, vì sự tranh luận của hai nhóm Phật học về chiều quay của chữ Vạn không bên nào đạt được lý lẽ thuyết phục.
5. Vài ý kiến khác:
* Có học giả so sánh chiều quay của chữ Vạn với chiều tương sinh trong Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ) đặt theo 4 hướng Tây, Bắc, Đông, Nam và Trung ương, và cho rằng: chữ Vạn quay theo chiều kim đồng hồ thì cùng chiều tương sinh của Ngũ Hành, mới đem lại sự an lạc, công đức viên mãn, cát tường; còn nếu quay ngược với chiều tương sinh của Ngũ Hành thì nó thiêu hủy hết công đức, đem lại phiền não, rất nguy hại.
Nhưng có điều là tại sao lại liên kết chiều quay của chữ Vạn với chiều tương sinh của Ngũ Hành? Giữa hai chiều nầy có gì liên hệ nhau? Tại sao không so sánh chiều quay của chữ Vạn với chiều quay của trái đất tự quay hay chiều quay của các địa cầu quanh mặt trời, tức là chiều quay tự nhiên trong vũ trụ? Đây mới thực là chiều quay tự nhiên, thuận dòng tiến hóa và Thiên lý; còn chiều tương sinh của Ngũ Hành chỉ là chiều qui ước do con người đặt ra mà thôi, không phải là chiều tự nhiên, hay chúng ta bị chữ tương sinh ám ảnh: "tương sinh" của Ngũ Hành cũng tương sinh công đức?
* Cũng có vài học giả cho rằng: Khi xưa, vẽ hình chữ Vạn quay theo chiều kim đồng hồ: Vạn 卍 (B), tượng trưng Nhứt bổn tán vạn thù; ngày nay là thời kỳ Vạn thù qui nhứt bổn, nên phải vẽ chữ Vạn quay theo chiều ngược lại: Vạn 卐 (A).
* Việc tranh cãi chiều quay của chữ Vạn, chiều nào đúng, chiều nào sai, đều căn cứ trên những nhận thức riêng của mỗi người hay mỗi nhóm người, nhưng không có cơ sở nào đủ sức thuyết phục một cách tuyệt đối, cho nên chúng ta không thể kết luận một cách khách quan bên nào hoàn toàn đúng, bên nào hoàn toàn sai.
Việc nầy giống như việc tranh cãi của hai người nói về sự xa và gần của mặt trời lúc sáng sớm và lúc trưa.
- Ông nầy thì cho rằng, buổi sáng sớm nhìn thấy mặt trời lớn hơn lúc buổi trưa. Vậy thì lúc sáng sớm, mặt trời ở gần nên thấy nó lớn, còn buổi trưa mặt trời ở xa hơn nên thấy nó nhỏ hơn.
- Ông kia cãi lại: buổi sáng sớm trời mát chứng tỏ mặt trời ở xa, còn buổi trưa thì nóng bức chứng tỏ mặt trời ở gần hơn, giống như khi ta đứng gần đống lửa vậy.
Hai ông có hai cái nhìn khác nhau đối với cùng một sự kiện nên có hai nhận định trái ngược nhau, ai cũng có lý cả, nên dầu cãi nhau cho đến tận thế thì không ai thắng ai và cũng không ai thua ai. Nhưng chân lý vẫn có một.
Kết luận:
Hình chữ Vạn quay theo chiều ngược kim đồng hồ (mẫu A) hay quay cùng chiều kim đồng hồ (mẫu B) thì đó chỉ là hai cái nhìn khi đứng ở hai vị trí trước mặt hay sau lưng của cùng một chữ Vạn mà thôi.
Trên nóc tháp chuông của Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, có gắn hình chữ VẠN: nếu chúng ta đứng trước Báo Ân Từ tại cột phướn nhìn lên, chúng ta thấy chữ Vạn theo (mẫu A) tức là quay ngược chiều kim đồng hồ; nếu chúng ta bước đến ngang hông Báo Ân Từ nhìn lên, tức là nhìn phía sau lưng chữ Vạn thì thấy theo 卍 (mẫu B) nghĩa là quay theo chiều kim đồng hồ.
Chữ Vạn tượng trưng chơn lý, và chơn lý nầy chỉ có một. Nhưng tùy theo vị trí đứng nhìn mà thấy chơn lý theo kiểu nầy, mang hình thức nầy; nếu đứng ở vị trí khác nhìn chơn lý thì thấy chơn lý theo kiểu khác với hình thức khác. Khi chúng ta hợp lại tất cả nhận thức, hợp lại tất cả kiểu dáng của tất cả sự mô tả chơn lý thì may ra chúng ta mới có thể hiểu được chơn lý một cách toàn vẹn đủ các mặt.
Cho nên, chúng ta không nên lấy cái quan điểm riêng của mình, ở tại vị trí của mình với cái nhìn của mình mà cho rằng, chỉ có mình là đúng, rồi phê bình chê bai những nhận thức khác là sai.
Chữ Vạn tượng trưng điều lành, điều tốt đẹp, vì nó hiện ra trên ngực của Đức Phật, nó là một trong 32 tướng tốt của Phật. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng, nếu chữ Vạn quay theo chiều nào đó thì nó thiêu hủy công đức. Cái công đức của ta, chỉ có những việc làm sai trái của ta mới tiêu hủy được công đức của ta, như cái lửa giận của ta chẳng hạn, ngoài ra không có điều gì bên ngoài khác mà thiêu hủy được công đức của ta.
Chúng
ta là những tín đồ Cao Đài đang ở trong Trường thi
công quả do Đức Chí
Tôn tạo lập, chúng ta cứ để mặc cho chữ Vạn quay tự do
theo chiều quay
của nó mà không cần bàn cãi,
chúng ta cố gắng lo làm tròn nghĩa vụ của
mình, lập công bồi đức càng nhiều càng tốt,
vì cái công đức nầy mới đem
chúng ta lên những ngôi vị cao trọng nơi cõi
thiêng liêng.
(theo Cao Đài Tự Điển)
______________________________________________________________________________________________________________________________
Giải
thích về chữ VẠN theo Đại-Đạo-Học :
Hà
Phước
Thảo
- Truyền thuyết về Đức Lạc Long
Quân và Bà Âu Cơ là Sử Trời hay Sử của
Vũ Trụ mà Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu đặt cho nhơn loại
là TRÙNG
QUANG
TÂM SỬ tức cuốn Sử không ghi
ra bằng chữ viết của bất cứ ngôn ngữ nào của nhơn loại,
mà ghi trong trí nhớ hay A-lại-da-thức tức ba hột
nguyên tử trường tồn là nguyên tử của cái
xác thân, nguyên tử của cái Vía hay
thể
tình cảm và nguyên tử của cái trí
đã học hỏi trong cõi trần gian nầy (gồm có tư
tưởng
lời nói + việc làm quay thành phim vô
USB = Memory). Khi chết đi
thì phải delete hết (ăn cháo lú), mà ghi
lại cuốn phim của nhiều kiếp.
Nếu sống theo chiều thuận của kim đồng hồ như là nước từ nguồn
chảy ra biển chứ không thể chảy lên trên cao được,
vì vậy mà tiến hoá sanh hóa mãi
và linh hồn con người quên cách đi ngược lên
nguồn, tức là linh hồn lúc mới giáng thế
(INVOLUTION) để tiến hóa trong vòng Luân Hồi
(EVOLUTION) do 6 con đường (lục đạo). Linh hồn con người từ cõi
Niết Bàn giáng thế để học hỏi, tiến hóa, thăng hoa
và tìm đường về nguồn cội và không thể về
được là vì không có chiếc xe (THỪA), phải
đóng xe nhỏ (TIỂU THỪA) để tự chạy đi về một
mình,còn nếu có khả năng đóng xe lớn (ĐẠI
THỪA) thì chở dùm thêm người khác
cùng về. Nói chở chứ thật ra không phải chở
trên chiếc xe của minh, mà chỉ cách đóng xe
cho người bạn mình tự đóng xe riêng, cùng
nhau chạy về như hai chiếc xe chạy song song, đó là
cùng nhau luyện Kim Thân. Từ xưa đến năm 1926 trên
thế giới nầy chưa ai biết ý nghĩa và lịch sử của Kinh
DỊCH hay Bát Quái Đồ Thiên. Chữ VẠN là do 1
chấm ở giữa (Thái Cực) trong khung tròn như bánh
xe tức VÔ CỰC mà trong Đạo Cao Đài gọi là
Đức Diêu Trì Kim Mẫu VÔ CỰC TỪ TÔN, cũng
chính là Đấng Sáng Tạo hay Đức Thượng Đế ở thể
TỊNH (ngài chưa làm nổ BIG BANG), Khi ngài cho
Trung Hoà Tử bắn vào điện tử Âm thì điện tử
Khí Hư Vô nổ ra, làm nổ dây chuyền những điện
tử của nguyên tử khác và quả bom nguyên tử
đầu tiên làm thành Galaxie (Galaxy) hay Đaị Linh
Quang => Ngài xuất hiện tức là ngài ở trạng
thái ĐỘNG (CÀN+CÀN = Toàn CÀN)
và sự nổ tiếp tạo ra HỎA mà hoả cháy sẽ cho ra
tro, nặng chìm xuống làm thành KHÔN chia
làm 6 khúc ngắn (LỤC LONG hay LẠC LONG QUÂN xuống
HỒ Động Đình) như vậy Toàn Dương (Thái Dương)
trong Âm (nước hay Thái Âm). Vì có sự
lên, xuống như vậy mà Ngôi CÀN mất một
HÀO Dương thành ra LY. Ngôi KHÔN thuộc HỎA
làm bốc cháy những nguyên tử bay lê
phí TÂY thành ra KIM (màu trắng = phế), bay
qua
phí Đông thành ra MỘC (màu xanh = gan),
lên
giữa thành màu Vàng (tì = bao tử),
Còn CÀN
lúc đầu là Huyền Khí phải nhờ có THỦY mới
hóa sanh được. Nguồn gốc loài người mà các
nhà nhân chủng học đưa ra lý thuyết là
Ông Tổ từ Huyền+Thủy tức Phi Châu (da đen) => khi qua
Đông hay vùng Trung Đông tứ Á rạp thì
bớt đen => khi lên vùng Siberie, Nga, Mông Cổ
nhiều thế hệ thì bớt đen, da vàng (MỒ KỶ THỔ), khi
lên phía TÂY thì ôn lạnh, nên da
ngày càng trắng và thích sử dụng kim
khí, chế máy móc. Người Tiền Sử qua Đông Bắc
da vàng và ông Tổ, bà Tổ là giống
RỒNG và TIÊN hay ÂM và DƯƠNG, lên
phía trên nữa là giống Mông Cổ cũng là
con cháu của giống Rồng Tiên và chư vị cổ
nhân đặt tên là LẠC VIỆT, viết KINH DỊCH nhưng chưa
có thứ chữ phải vẽ ra chữ tượng hình gọi là chữ
NÔM. Nhóm con cháu lên phía Bắc
là giống Mông Cổ xuống phía Nam để trở lại
vùng phì nhiêu, lúc đầu là du mục,
nhờ sử dụng ngựa giỏi chiếm các nơi, cai trị giống rợ Nội
Mông, lai giống thành giống Hán, sanh đẻ nhiều
nên đánh tổ tiên của loài người là
giống Lạc Việt, phải bỏ chạy xuống phía Nam lánh nạn, bỏ
lại rất nhiều tài liệu quí là cách
làm trống đồng, cách canh tác ruộng lúa
nước, cách sử dụng tiền. Trong sơ đồ luyện Đạo của NHỊ TỔ Lạc
Việt tức NHỊ TỔ của nhơn loại là Bát Quái Đồ
Thiên mà chữ VẠN là do giống Lạc Việt di dân
xuống nhiều vùng phía Nam, ra biển cà sống
trên các đảo như Nam Dương và các đảo nhỏ
trong Thái Bình Dương.
Trong thánh giáo
TAN NHẬT ĐÀN, Đức Cao Đài Tiên Ông Ngô
Tiên Ông có giảng về ngài là Chiết
Thân của Đức Thượng Đế đã tu 4 tỉ năm bằng bửu pháp
mà giống Lạc Việt đã vẽ ra cách tu luyện CHIẾT
KHẢM ĐIỀN LY mà Đức Lạc Long Quân và bà
Âu Cơ đã hành, có Kim Thân và
trở về ngôi vị cũ. Trong truyền thuyết mà mọi người
dân Lạc Việt hay Việt Nam ngày nay đều nhớ rõ về
Bùa Bát Quái, khi Tết có dựng nêu để
dân làng nhớ bát Quái Đồ. Khi Đạo Cao
Đài được chính Đức Thượng Đế mở ra ở Việt Nam thì
chính Đức Ngô Minh Chiêu giáng thế lần nữa đẩ
thực hành bửu pháp Chiết Khảm điền Ly mà 40 tỉ năm
ngài học và hành rồi, Ngài hành lại.
có Kim Thân và đắc Phật tại thế để chứng minh cho
chư nguyên nhân hay những chơn linh vào hàng
Tiên, Phật giáng thế để giúp nhơn loại mà
ai chưa về được Niết Bàn vì chưa luyện Kim Thân,
nên ngài hành cho
thấy, chỉ một kiếp nầy thì ai nguyên nhân từ cỡi
trên,
luyện xong là trở về khi qui liễu. Vì vậy trong Đạo Cao
Đài có bửu pháp Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh
chính là Bát Quái Đồ Thiên mà
Nhị Tổ của loài người đã học và hành rồi.
các giống dân khác chưa biết truyền thuyết về
dòng giống Lạc Việt hay Tiên Rồng hay Lạc Hồng, cho
nên họ chưa biết tác giả quyển KINH DỊCH là do Đấng
nào vẽ ra Tiên Thiên (Hà Đồ) và Hậu
Thiên (Lạc Thơ). Tôi xin chứng minh để các nước biết
điều nầy, vì khoa khảo cổ không tìm ra manh mối
đâu!
Lịch sữ chữ VẠN là do Nhị
Tổ Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ vẽ ra chứ
không phải do giống dân Ấn Độ vẽ đâu!
Vì sao? Vì Tổ của
nhơn loại xuất phát từ HUYỀN + THỦY hay Phi Châu => khi
qua vùng Quảng Đông thì tạo nền văn minh Đông
Sơn, Hoà Bình, Trống Đồng, kỹ thuật lúa nước, vẽ
Bát Quái, Kinh Dịch, tu luyện, bị đáng thua chạy
xuống phía Nam như Thái Lan, Láo, Việt Nam,
Miên, Mã.lai, Nam Dương, qua Ấn Độ và Đạo Phật từ
lúc Trung Nguơn do Đức Phật Thích Ca khai đạo, Đức Bồ Đề
Đạt Ma truyền sang Trung Quốc, xuống phía Nam, còn Ấn Độ
chưa có biết Kinh Dịch và chữa VẠN họ học từ nhị Tổ Lạc
Hồng, chứ họ không tự vẽ ra đâu!
Xin chứng minh: Vô Cực
có Thaí cực ở giữa, khi phân ra Lưỡng Nghi
thì chong chóng 2 cánh, khi biến ra Tứ Tượng
thì 4 cánh, chong chóng quay xuôi, có
cọng ló ra thêm cho thành bát Quái
như vậy chữ VẠN xuôi là HẬU THIÊN sanh hóa,
tiến hóa thăng hoa tức Nhứt bổn tán vạn thù. Muốn
trở về nguồi cội thì phải đi ngược dòng nước tức từ biển
làm sao cho nước lên Tây tạng được? Đó
là nghịch chuyển.
Thí dụ rất cụ thể: Vũ Trụ
có Tam Bửu là Tiên Thiên (rau cải,
trái cây, ngũ cốc) ăn vào thì sanh ra TINH,
Hít thở không KHÍ mà KHÍ HƯ VÔ
là huyền năng sanh hóa hay HUYỀN KHÍ, hít
vào nuôi dưỡng mà sống. Ánh sáng
nhìn vào hai mắt mà biết gom lại thành THẦN
ở con mắt thứ ba thì bá báu đó sẽ
làm cho phàm thân thành ra Thánh
Thai, Kim Thân. Chữ VẠN xuôi chiều kim đồng hồ là
Nam tống TINH qua nữ hay Âm Dương giao cấu thì phải hao
Tinh mói sanh con được, Chiều xuôi theo thiên
nhiên hay đi xuống SANH-TỬ-LỘ tức là chỗ phóng ra
Tinh vô trứng của người nữ sanh ra con.
Nếu biết luyện cho TINH qua khỏi lổ
trống không đi xuống mà qua Vĩ Lư thổi hay bôm
KHÍ Hư Vô tống lên trên thì khi qua
Mạng Môn, nơi đó làm kích thích
Hào Dương dư của KHẢM làm thành hơi và đem
lên ngang Giáp Tích, Ngọc Chẩm, vô Nê
Huờn Cung và Âm Dương giao cấu tại giáp mối của
Nhâm mạch và Đốc mạch, tinh và Khí của
chính
trong bản thể phóng xuất ra thành Đề Hồ hay Cam Lồ, nuốt
xuống nuôi Anh Nhi, dưỡng Anh Nhi cho lớn thành Kim
Thân, sẽ bay ra khỏi Thiên Môn lúc ngủ (xuất
Thần, xuất Vía thức tỉnh, ai tu luyện phải ngủ ngồi). Chữ VẠN
theo Kinh Dịch và bửu
pháp, viết ngược chiều kim đồng hồ, tức vẽ rõ ra bửu
pháp Chiết Khảm điền LY hay Nghịch Chuyển bằng luyện Tinh
hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần
hoàn Hư, luyện Hư hoàn Vô, đắc Đại tại thế hay
thành Phật tại tiền cũng nhờ chữ VẠN ngược chíều.